Tiếng Phạn là Avalokitesvara, tiếng Việt là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
Theo kinh Bi Hoa, thì ở vào thời quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai, thời đó có vua Chuyển Luân Thánh Vương là Vô Chính Niệm. Vua có quan đại thần là Bảo Hải (phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia). Do được ngài Bảo Hải khuyến tiến, nên vua Chuyển Luân xuất gia, đối trước Phật Bảo Tạng, phát khởi 48 đại nguyện. Do đó, đức Bảo Tạng thụ ký cho vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỷ khiêu): “Sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở thế giới Cực lạc”. Vua Chuyển Luân có nhiều con, con cả là thái tử Bất Tuẫn, cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến, thái tử xuất gia theo cha và đối trước đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bản nguyện đại bi thương xót cứu độ tất cả các loài chúng sinh bị khổ não. Vì vậy đức Bảo Tạng thụ ký cho thái tử thành Bồ tát, hiệu là Quán Thế Âm (còn Bảo Hải là tiền thân của đức Thích Ca Mâu Ni). Đức Bảo Tạng thụ ký cho thái tử Bất Tuẫn rằng: “Vì lòng đại bi, ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sinh được cùng về cõi An lạc (cực lạc), vậy từ nay đặt tên cho ông là Quán Thế Âm”.
Sau khi Phật Di Đà nhập Niết bàn, thì cõi nước đó đổi tên là: “Nhất thiết trân bảo sở thành tựu thế giới” (Thế giới do tất cả trân bảo tạo thành). Và bấy giờ ngài thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Vương Như Lai” (Như Lai vua công đức chiếu quang minh ra tất cả).
Do đó, Bồ tát Quán Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của đức A Di Đà. Hiện tại Ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em Ngài, con thứ vua Chuyển Luân, cũng cùng Ngài đồng thời được đức Bảo Tạng thụ ký) trợ duyên giáo hóa độ sinh cho đức A Di Đà và hai Ngài cùng ứng thân xuống Sa bà trợ giáo cho đức Thích Ca Mâu Ni.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì chép lời Ngài bạch với đức Thế Tôn (đức Thích Ca) rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm”. Trong vô số hằng hà sa kiếp trước do nghe Phật thuyết Pháp, Ngài đã nhận định phép tu viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do Ngài khéo chứng viên thông ở nhĩ căn nên được đức Phật Quán Thế Âm thụ ký cho Ngài danh hiệu “Quán Thế Âm” một danh hiệu mà chúng sinh ở mười phương cung kính chấp trì nhất là trong những lúc nguy hiểm, khổ đau.
Lại nữa, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: “Xưa kia ngài Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là Chính Pháp Minh Như Lai. Tiền thân đức Thích Ca hồi ấy đã từng ở dưới pháp tòa xung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi”. Ngày nay đức Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử gần gũi lại. Đó là : “Một đức Phật ra đời thì hàng ngàn đức Phật phù trì”.
Kinh Đại Bi Tâm Đà-la-ni thì chép lời ngài bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì nghĩ thương đến con và tất cả chúng sinh nên nói ra môn Đại bi tâm Đà-la-ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con mà bảo: “Thiện nam tử! Ông nên thụ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sinh trong cõi nước ở đời vị lai, mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn”. Lúc đó con mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đằc đệ bát địa”.
Mật tông thì theo kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị đại Quán Âm là:
- Viên mãn ý nguyệt Minh Vương Bồ tát.
- Bạch y Tự tại.
- Cát la sát nữ.
- Tứ diện Quán âm.
- Mã đầu La sát.
- Tỳ câu
- Đại Thế chí.
- Đà la Quán âm (Lục độ Tara).
Ngài có sức uy thần công đức và lòng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì Ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường gặp nhiều khổ nạn hơn nam giới) cho nên giới phụ nữ thường đặc biệt tín ngưỡng Ngài vì thế mới kêu cầu đến Ngài luôn luôn, nên chúng sinh tưởng tượng ra Ngài có hình tướng nữ để tiện hóa độ cho hàng phụ nữ. Vả lại, chúng sinh ở cõi Sa bà này được nhờ ơn Ngài cứu độ, che chở nhiều nên tất thảy đều coi Ngài như mẹ hiền vì vậy mới tưởng tượng ra Ngài có hình tướng nữ (tượng trưng cho lòng thương) nên gọi Ngài là Phật Bà. Chùa Hương tích (Hà Nội,Việt Nam) có thờ Ngài. Truyện Quán Âm quốc văn có câu:
Rằng trong cõi nước Nam ta
Chùa Hương có đức Phật Bà Quán Âm
Truyền thuyết nói Ngài hóa thân tu hành ở chùa Hương (xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Tp. Hà Nội). Không những Ngài cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh trong lúc sống mà còn tiếp độ cho chúng sinh sau lúc mất nữa. Nếu chúng sinh nào có nguyện cầu Tịnh độ mà niệm đến danh hiệu Ngài thì mệnh chung Ngài sẽ tiếp dẫn về Tây phương Cực lạc.
Kinh nói: Đức Phật A Di Đà cùng với các Thánh chúng là Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí v.v… hiện thân tiếp dẫn những người tu Tịnh độ lúc lâm chung về Cực lạc là thế!
Xem thế thì đủ biết công đức của đức Quán Thế Âm đối với chúng sinh nói chung và đối với chúng sinh ở Sa bà nói riêng, to lớn biết nhường nào! Cho nên chúng ta, dù tu theo bất kỳ pháp môn gì đi nữa, cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài, trì chân ngôn của ngài để cầu ngài hộ niệm và gia bị cho, mới mong thoát khỏi những khổ ách, tai nạn, và sự nghiệp tu hành mới mau chóng có kết quả, bản nguyện mới nhanh chóng được thành tựu./.